Tại hội thảo công bố các nghiên cứu chuyên sâu, được xây dựng từ điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ cùng cuộc điều tra thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số, diễn ra ngày 23/12, Cục Thống kê (Bộ Tài chính) đã công bố 3 báo cáo nổi bật.

Trong đó, đáng chú ý là báo cáo “Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2024-2074” cung cấp bức tranh toàn diện về xu hướng biến đổi quy mô, cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính, cũng như sự phân bố dân cư của Việt Nam trong nửa thế kỷ tới.

Dự báo cho thấy, dân số Việt Nam tiếp tục tăng trong các thập kỷ tới nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm dần và dự kiến đạt đỉnh vào khoảng năm 2059 theo phương án trung bình trước khi chuyển sang giai đoạn tăng chậm hoặc ổn định.

Trong giai đoạn 2024-2074, dân số Việt Nam theo ba kịch bản về mức sinh thấp (1,45 con/phụ nữ), mức sinh trung bình (1,85 con/phụ nữ) và mức sinh cao (2,01 con/phụ nữ) sẽ tăng thêm tương ứng là 2,5%, 12,7% và 17%, đạt quy mô lần lượt là 103,9; 114,2 và 118,5 triệu người.

Thời kỳ cơ cấu dân số vàng dự báo sẽ khép lại vào năm 2036, nhường chỗ cho thời kỳ dân số già và siêu già, thể hiện qua sự thu hẹp các nhóm tuổi trẻ và trung niên, cùng với sự gia tăng nhanh của nhóm dân số cao tuổi.

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Nguyễn Lê

Bên cạnh đó, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh kéo dài đến giữa thế kỷ XXI tiếp tục tác động đến cơ cấu giới tính của dân số, trong khi quá trình đô thị hóa vẫn diễn ra nhưng có xu hướng chậm lại khi tỷ lệ dân số thành thị tiệm cận ngưỡng 50%.

Di cư nội địa tiếp tục là một trong những nhân tố quan trọng làm thay đổi phân bố dân cư giữa các vùng, phản ánh sự khác biệt về điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và khả năng thu hút, sử dụng lao động của các địa phương.

Bà Đỗ Thị Ngọc, Phó Cục trưởng Cục Thống kê, nhấn mạnh việc tận dụng hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng có ý nghĩa quyết định đối với tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Do vậy, cần ưu tiên đầu tư phát triển kỹ năng cho lực lượng lao động, nhất là kỹ năng số, kỹ năng nghề và năng lực thích ứng công nghệ. Đồng thời, cần cải thiện điều kiện việc làm, phát triển môi trường lao động an toàn, linh hoạt giúp giữ chân và phát huy tối đa lực lượng lao động trẻ, tăng sức chống chịu của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, báo cáo “Những khác biệt về đặc trưng kinh tế xã hội và nghèo đa chiều trẻ em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” cung cấp phân tích toàn diện về điều kiện sống, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trong các cộng đồng dân tộc thiểu số và mức độ nghèo đa chiều của trẻ em dân tộc thiểu số.

Hay báo cáo “Di cư nội địa Việt Nam giai đoạn 2009-2024” tổng hợp và phân tích xu hướng, quy mô, cơ cấu và động lực của di cư nội địa trong 15 năm qua, làm rõ mối liên hệ giữa di cư với thị trường lao động, quá trình đô thị hóa và phân bố dân cư.

Kết quả cho thấy, quy mô di cư nội địa có xu hướng giảm trong giai đoạn gần đây, từ mức cao khoảng 6,4 triệu người giai đoạn 2014-2019 xuống còn khoảng 3,8 triệu người giai đoạn 2019-2024.

Trong đó, di cư thành thị – thành thị chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 70%), cho thấy phần lớn người xuất cư từ khu vực thành thị lựa chọn chuyển đến các thành thị khác để sinh sống. Đồng thời, xu hướng di chuyển ở khoảng cách ngắn ngày càng rõ nét, phản ánh nhu cầu ổn định nơi cư trú và giảm chi phí di chuyển của người di cư. Mặc dù quy mô di cư nội địa giảm mạnh, số người di cư là đồng bào dân tộc thiểu số chỉ giảm nhẹ, làm cho tỷ trọng nhóm này tăng lên đáng kể.

Những biến động này cho thấy các chính sách phát triển kinh tế – xã hội tại khu vực nông thôn, ven đô và các thành phố vệ tinh bước đầu phát huy hiệu quả trong việc tạo việc làm cho người dân.

Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách theo hướng linh hoạt và bao trùm hơn, chú trọng mở rộng cơ hội việc làm và dịch vụ xã hội tại địa phương, hỗ trợ di cư ngắn hạn và liên vùng, tăng cường các can thiệp đặc thù nhằm bảo đảm đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ cơ bản trong quá trình di cư và ổn định cuộc sống.

theo Vietnamnet